Bướu
cổ là một từ dân dã được sử dụng rộng rãi trong đời sống và đôi khi cả trong ngành Y. Bướu cổ là sự tăng
thể tích của tuyến giáp trạng (Bướu cổ là gọi chung gồm: Bướu giáp đơn, bướu
basedown.)
1. Nguyên nhân
- Do thiếu hụt iốt tuyệt đối:
+
Môi trường sống thiếu hoặc thừa iốt
+
Chế độ ăn thiếu iốt: Sử dụng một số thực phẩm làm ức chế hấp thu iốt của cơ thể: sắn, củ cải, măng… hoặc một số thực
phẩm làm phì đại tuyến giáp như quả su.
-
Di truyền
-
Rối loạn bẩm sinh, rối loạn này có tính chất gia đình.
-
Do dùng thuốc và do thức ăn: do dùng kéo dài một số loại thuốc như muối Lithium
(dùng trong chuyên khoa tâm thần), thuốc kháng giáp tổng hợp, thuốc có chứa
I-ôt như thuốc cản quang, thuốc trị hen, thấp khớp, chống loạn nhịp…
-
Ngoài ra, những phụ nữ bị kích thích thần kinh trong thời kỳ phát triển hoặc có
thai và cho con bú cũng dễ nguy cơ mắc bệnh bướu cổ.
2. Cách phát hiện và các triệu chứng chính
-
Bướu giáp thông thường khó phát hiện vì không có nhiều triệu chứng rõ ràng,
ngoài một số biểu hiện như cổ to ra, một số bệnh nhân có cảm giác nghèn nghẹn ở
cổ, khó nuốt, thường được người khác phát hiện hoặc đi khám sức khỏe.
-
Một số bệnh nhân có biểu hiện nhược giáp: mệt mỏi, đau cơ, táo bón, rụng tóc,
nói khàn, chán ăn, giảm trí nhớ. Vùng cổ có một hoặc nhiều cục bất thường di
động theo nhịp nuốt. Khi ăn uống có cảm giác nghẹn, tức ở cổ nhất là khi nuốt…
Bởi
vậy, khi xuất hiện các triệu chứng nghi ngờ, người bệnh cần đến các Trung tâm Y
tế hoặc bệnh viện chuyên khoa để khám và điều trị kịp thời.
(Nguồn ảnh: https://suckhoedoisong.vn)
3. Cách phòng chống
-
Ăn muối iốt và một số thức ăn có chứa nhiều iốt như hải sản, trứng, sữa…
-
Không dùng kéo dài các thuốc, thức ăn ức chế hấp thu iốt
-
Vì vậy phương pháp tốt nhất để phòng ngừa bệnh bướu cổ là bổ sung đầy đủ vi
lượng iốt cho bữa ăn hàng ngày. Nếu đã có dấu hiệu sưng to nên đến bác sỹ
chuyên khoa hoặc bệnh viện để xạ trị hay phẫu thuật.
Tài liệu dựa theo quyết định 3879/QĐ-BYT về
việc ban hành, hướng dẫn chẩn đoán và điều trị bệnh nội tiết - chuyển hóa” ngày 30/9/2014 của Bộ Y tế.
Người viết bài: Hồ Thị Mỹ Hạnh (khoa YTCC)