1. Cách phòng và chữa bệnh lao tại
cộng đồng
- Chữa lao đúng cách, sẽ giảm lây một cách nhanh chóng, thường chỉ 2 tuần
lễ. Biện pháp phòng bệnh lao hiệu quả nhất là điều trị khỏi cho những bênh nhân
có lao phổi ho ra vi khuẩn lao.
- Tiệt trùng đờm, chăn chiếu bằng ánh sáng mặt trời, nhiệt độ 600C
trong 20 phút vi khuẩn lao sẽ chết. Phơi dưới ánh nắng mặt trời là phương pháp
đơn giản hiệu quả.
- Vệ sinh môi trường: nhà cửa thông thoáng, không khạc nhổ bừa bãi, dùng
khăn giấy gom đờm đốt đi.
- Tuổi cao, yếu tố độc hại (thuốc lá, bia rượu…), dinh dưỡng kém… là yếu
tố làm bệnh nặng hơn.
- Tiêm phòng BCG cho trẻ sơ sinh.
2. Nơi chữa bệnh lao
- Phòng khám lao tuyến huyện giúp khám, phát hiện, chẩn đoán bệnh lao. BN
được điều trị tại các trạm y tế xã.
- Điều trị 8 tháng được miễn các chi phí: thuốc, khám bệnh và xét nghiệm
đờm.
3. Các biện
pháp phòng lây nhiễm lao
3.1. Trong hộ gia đình
Tốt nhất là người nghi lao được khám xét nghiệm phát hiện sớm. Điều trị
theo
04 nguyên tắc:
- Tiêm phòng BCG cho trẻ sơ sinh và <1 tháng tuổi.
- Giữ vệ sinh môi trường: Ở thông thoáng, khạc đờm đúng cách, thường
xuyên phơi nắng: chiếu, chăn, màn...
- Khi có Người bệnh lao phổi AFB+: Tránh tiếp xúc với trẻ <5 tuổi và người
nhiễm HIV. Ở phòng riêng, thông thoáng khí.
- Ho khạc, gom đờm đúng cách.
3.2. Tại các cơ sở y tế
3.2.1. Biện pháp hành
chính
- Chuyển sớm nghi ngờ lao hoặc bệnh nhân lao đến cơ sở chuyên khoa lao.
- Ưu tiên khám và chuyển nghi ngờ lao khám lao sớm, hạn chế thời gian
tiếp xúc.
- Hướng dẫn ngưới bệnh ho, khạc nhổ, gom đờm đúng cách.
- Khám sức khỏe định kỳ cho nhân viên Y tế 6 tháng/1 lần.
3.2.2. Biện pháp xử lý môi
trường
- Thông gió là rất quan trọng cho những nơi có mật độ người tập trung cao
- Lau dọn, tẩy trùng trong phòng khám, bệnh phòng hành ngày.
3.2.3. Biện pháp cá nhân
- Nhân viên Y tế khi tiếp xúc với người bệnh cần đeo khẩu trang, rửa tay
bằng xà phòng ngay sau khi khám bệnh.
- Người bệnh có dấu hiệu nghi lao, đặc biệt là người là nguồn lây, phải
được đeo khẩu trang thường xuyên tại những nơi có đông người.
Tài liệu tham khảo: Quyết định số 4263/QĐ-BYT ngày 13/10/2015 của Bộ Y tế.
Người viết bài: Hồ Thị Mỹ Hạnh (Khoa YTCC)